Giáo án Ngữ văn 10 KNTT BỘ 2 NGƯỜI CẦM QUYỀN....docx

Không thẻ bỏ qua các nhóm để nhận nhiều tài liệu hay 1. Ngữ văn THPT 2. Giáo viên tiếng anh THCS 3. Giáo viên lịch sử 4. Giáo viên hóa học 5. Giáo viên Toán THCS 6. Giáo viên tiểu học 7. Giáo viên ngữ văn THCS 8. Giáo viên tiếng anh tiểu học 9. Giáo viên vật lí Xem trọn bộ BỘ SƯU TẬP GIÁO ÁN NGỮ VĂN 10 KNTT WORD VÀ PPT BỘ 2. Để tải trọn bộ chỉ với 50k hoặc 200K để sử dụng toàn bộ kho tài liệu, vui lòng liên hệ qua Zalo 0388202311 hoặc Fb: Hương Trần.

Spinning

Đang tải tài liệu...

BÀI 7:

QUYỀN NĂNG CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN

(12 tiết)

(Đọc: 8 tiết; Thực hành tiếng Việt: 1 tiết; Viết: 2 tiết; Nói và nghe: 1 tiết)

***

MỤC TIÊU

1. Kiến thức

- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện như: người kể chuyện ngôi thứ

ba và người kể chuyện ngôi thứ nhất, điểm nhìn, lời người kể chuyện, lời nhân vật.

- Phân tích và đánh giá được tình cảm, cảm xúc, cảm hứng chủ đạo mà người viết thể

hiện qua văn bản; phát hiện được các giá trị đạo đức, văn hoá từ văn bản.

- Hiểu tác dụng của biện pháp chêm xen, biện pháp liệt kê; biết cách vận dụng vào

việc tạo câu.

2. Năng lực

- Viết được một bài văn nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về

nghệ thuật của một tác phẩm văn học.

- Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ

thuyết phục; tôn trọng người đối thoại.

3. Phẩm chất

Yêu thương và có trách nhiệm đối với con người và cuộc sống.

GIỚI THIỆU BÀI HỌC

a. Mục tiêu: GV hướng dẫn HS huy động hiểu biết, vốn sống, trải nghiệm, cảm xúc cá

nhân để trả lời các câu hỏi trước khi đọc nhằm chuẩn bị tiếp cận VB đọc với tư cách

một người đọc chủ động và tích cực.

b. Nội dung:

HS trả lời câu hỏi trắc nghiệm

c. Sản phẩm: Câu trả lời của hs

d. Tổ chức thực hiện:

B1: Chuyển giao nhiệm vụ

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi

Đoàn Thôn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lị nhỏ ở trung châu.

Hai dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những cái chái nứa

đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một căn nhà gạch có

gác bưng bít như một cái tổ chim, nhà của một người giàu trong làng làm ra để bán

hàng. Người ở phố chợ là bảy tám gia đình nghèo khổ không biết ở đâu, mà người dân

trong huyện thường gọi một cách khinh bỉ: những kẻ ngụ cư. Họ ở đâu đến đây kiếm

ăn trong mấy năm trời làm đói kém, làm những nghề lặt vặt, người thì kéo xe, người

thì đánh dậm, hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng. Người ta gọi

mọi gia đình bằng tên người mẹ, nhà mẹ Hiền, nhà mẹ Đối, nhà mẹ Lê. Những gia

đình này giống nhau ở chỗ cùng nghèo nàn như nhau cả.

Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một ngươì con. Bác Lê là

một người đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một

quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một

đứa, mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.

Mẹ con bác ta ở một căn nhà lá. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng

rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. Mùa rét thì trải ổ

rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó

con lúc nhúc. Đối với người nghèo như bác một chồ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi.

Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi

1